Vậy ngoại cảm và ngoại cảm tìm mộ là gì? Và khả năng của nó có đáng tin cậy hay không? Tại sao không một nhà ngoại cảm nào dám thử thách bản thân trong vụ án nhà báo Hoàng Hùng bị đốt, trong “kỳ án vườn mít” của Lê Bá Mai, hoặc trong vụ thẩm mỹ viện Cát Tường?
Đại tá Đỗ Kiên Cường
|
Theo quan niệm chính thức trong lĩnh vực dị thường học, ngoại cảm ESP (Extra-Sensory Perception) là sự cảm nhận không dùng năm giác quan quen thuộc. Nói cách khác, đó là giác quan thứ sáu. Ngoại cảm được chia thành bốn phạm trù: Thần giao cách cảm, thấu thị (hoặc thấu thính), tiên tri và hậu tri.
Thần
giao cách cảm (telepathy) là khả năng đọc ý nghĩ của người khác. Thấu
thị hoặc thấu thính (clairvoyance hoặc clairaudience) là khả năng nhìn
xuyên tường hoặc nghe được những âm thanh mà tai không nghe được. Tiên
tri (precognition) là khả năng thấy một sự việc trước khi nó xẩy ra. Còn
hậu tri (retrocognition) là khả năng giải đoán quá khứ, chẳng hạn biết
“kiếp trước” của một người nào đó.
Thuật ngữ tâm linh trong lĩnh vực
dị thường học được chia thành ba nhóm chính: Ngoại cảm (như trên); viễn
di tâm học (psychokinesis), tức sức mạnh tâm trí trên vật chất, như bẻ
cong thìa bằng ý nghĩ; và liên lạc với người chết. Theo tâm linh luận,
một quan điểm tôn giáo - triết học về sự tồn tại sau cái chết, giới đồng
cốt là những người có thể liên lạc với cõi âm.
Chính
vì vậy “ngoại cảm tìm mộ” là cách nói sai. Khi tìm mộ, Phan Thị Bích
Hằng và các “nhà ngoại cảm” khác dùng mọi giác quan để tìm hiểu thông
tin, nên đó không phải là ngoại cảm (giác quan thứ sáu). Chính xác hơn,
họ là cô đồng hoặc cậu đồng, tức người có thể “gọi hồn” hoặc “áp vong”.
Có thể làm sang cho họ bằng cách gọi là “nhà tâm linh”, chứ cách gọi
“nhà ngoại cảm” thì hoàn toàn sai lạc so với bản chất của vấn đề.
Ngoại cảm và tâm linh có thật hay không?
Các
hiện tượng tâm linh đã xuất hiện từ buổi bình minh của loài người, tuy
nhiên chỉ đến năm 1882, chúng mới được nghiên cứu một cách khoa học khi
Hội nghiên cứu tâm linh đầu tiên trong lịch sử ra đời tại Anh. Xuất phát
từ những bằng chứng mang tính giai thoại (trên các phương tiện thông
tin đại chúng) rồi đi dần tới các nghiên cứu bài bản trong phòng thí
nghiệm, sau 130 năm nghiên cứu công phu, giới dị thường học chưa tìm
được bất cứ bằng chứng khoa học nào cho thấy các hiện tượng tâm linh có
thật.
Do
đó hiện nay giới khoa học quốc tế hầu như không tiến hành nghiên cứu
nữa. Thay vào đó, nhiều cá nhân và tổ chức treo thưởng lớn cho bất cứ
nhà tâm linh nào vượt qua các thử thách quy chuẩn được cả giới nghiên
cứu và giới tâm linh thừa nhận. Chẳng hạn Quỹ Randi (mang tên nhà ảo
thuật James Randi, người chỉ rõ khả năng nhìn cong thìa của nhà tâm linh
lừng danh Geller chỉ là sản phẩm của ảo thuật) treo giải một triệu đô
la Mỹ. Các tổ chức nghi ngờ tại nhiều nước thì treo các giải trị giá
200.000 euro/giải thưởng. Hàng ngàn nhà tâm linh trên khắp thế giới đã
thất bại trong cố gắng trở thành triệu phú nhờ khả năng siêu việt của
mình. Nếu có tài năng thực sự, không những Việt Nam được vinh danh, mà
Phan Thị Bích Hằng và giới “ngoại cảm” nước ta cũng sẽ giầu to!
Linh hồn có thật hay không?
Nói
chung Phan Thị Bích Hằng và các “nhà ngoại cảm” nước ta đều tìm mộ bằng
cách “gọi hồn” hoặc “áp vong", tức nói chuyện với người chết. Vậy người
chết có biết nói chuyện hay không? Có thể đặt ra câu hỏi mang nhiều
tính khoa học hơn: Có linh hồn hay không?
Câu trả lời chính thức của
khoa học là không có linh hồn như một tồn tại sau cái chết. Cặp phạm trù
cấu trúc - chức năng trong sinh học khẳng định, một chức năng sống chỉ
có thể do một cấu trúc sinh học đảm nhiệm. Chỉ tim mới bơm được máu đi
nuôi cơ thể; chỉ não mới biết nhận thức, cảm xúc và chỉ đạo hành vi. Mọi
đặc trưng tinh thần (cái mà dân gian gọi là hồn) chỉ có thể được thực
thiện trong một bộ não đang sống. Khi chết, các quá trình sinh học trong
não chấm dứt, và các đặc trưng tinh thần (hồn) cũng chấm dứt theo;
giống như máy tính khi mất điện vậy.
Vậy
tại sao giới đồng cốt có thể đưa ra một số thông tin đúng, khiến nhiều
người tin “ngoại cảm tìm mộ” có một phần sự thật? Câu trả lời là họ có
thể moi tin từ chính thân chủ nhờ ba kỹ thuật: Đọc nóng (tìm hiểu thông
tin trước khi áp vong); đọc ấm (lấy tin từ thân chủ qua các ám hiệu thị
giác hoặc các quy luật tâm lý - xã hội thông thường; chẳng hạn thấy vết
mờ trên ngón tay đeo nhẫn thì nói thân chủ trục trặc hôn nhân); và đọc
nguội, tức đọc ngôn ngữ cơ thể qua hiệu ứng Hans thông minh (ngựa Hans
tại Berlin đầu thế kỷ 20 biết làm toán, đọc đúng tên tổng thống Mỹ… nhờ
đọc ngôn ngữ cơ thể người đối diện). Tuy nhiên Phan Thị Bích Hằng,
Nguyễn Thanh Thúy và giới “ngoại cảm” nước ta thì không cần làm chủ cả
ba kỹ thuật đó mà vẫn được tin tưởng. Đó là do “chúng ta muốn tin”, một
bản năng gốc của con người.
Bản chất sinh học của sự mê tín
Đã
từng xuất hồn và sau bốn mươi năm nghiên cứu các hiện tượng xuất hồn
hay thoát xác, nhà tâm lý Susan Blackmore và giới khoa học hoàn toàn bất
lực trong việc thuyết phục mọi người rằng, các hiện tượng tâm linh
không có thật. Và bà đã phải đưa ra định luật Blackmore thứ nhất vào năm
2004: “Niềm tin của con người vào các hiện tượng dị thường lớn hơn mọi
chứng cớ phản bác”! Nói cách khác, chúng ta có xu hướng tin tưởng một
cách thiếu phê phán đối với các hiện tượng như linh hồn, thần thánh hoặc
ma quỷ.
Và giới khoa học đã đưa ra nhiều cách giải thích cho sự mê
tín của con người. Thật kỳ lạ khi giới khoa học nhận thấy, mê tín là
một hành vi được chọn lọc tư nhiên ưu ái, và người mê tín có sức khỏe
thể chất và tinh thần tốt hơn người không mê tín. Trước mọi khó khăn
trong cuộc sống, người mê tín có thể kêu gọi sự trợ giúp của thánh thần
hoặc ma quỷ; trong khi người không mê tín phải tự mình đối diện (Lời
xưng tội khi đi nhà thờ hoặc lời cầu Phật khi tụng kinh có tác dụng
chẳng kém gì các buổi tham vấn hoặc trị liệu tâm lý hiện đại!). Nói cách
khác, chúng ta tiến hóa để tin các hiện tượng dị thường có thật; và
trên quan điểm sinh học, con người là một loài động vật mê tín!
Thử nghiệm bà Phan Thị Bích Hằng và giới “ngoại cảm” như thế nào?
Do
linh hồn không có thật nên Phan Thị Bích Hằng và toàn bộ giới tâm linh
nước ta đều lừa đảo khi tuyên bố có thể tìm mộ liệt sỹ bằng cách “nói
chuyện với người chết”. Vậy có thể thử nghiệm khả năng của họ như thế
nào?
Cách
đơn giản nhất là tạo một nhân thân giả và đề nghị giới tâm linh đi tìm
mộ. Đây là cách đơn giản nhưng hiệu quả để nhận ra chân tướng kẻ lừa
đảo. Cô đồng Phương tại Thanh Hóa từng bị một phóng viên báo Công an TP
Hồ Chí Minh vạch mặt bằng cách này. Năm 2007, phóng viên chuyên trang
Vietimes của Vietnamnet đã “bịa” ra một nhân thân liệt sỹ. Và sau sáu
ngày tìm kiếm vất vả, một ngôi mộ đã được một nhà “ngoại cảm” tìm ra
(!).
Bạn đọc cũng có thể thử thách bằng cách nhờ “nhà tâm linh” tìm
ngôi mộ tại nghĩa trang làng (với điều kiện các ngôi mộ đề không có
tên). Cần lưu ý không nhờ người biết vị trí ngôi mộ dẫn đường để tránh
hiệu ứng Hans thông minh.
Bài
bản nhất là đưa một bộ hài cốt đã xác định danh tính bằng ADN vào một
trong mười quan tài giống nhau và yêu cầu “nhà ngoại cảm” tìm quan tài
có cốt. Lưu ý không để người đặt cốt xuất hiện trong cuộc khảo nghiệm để
tránh hiệu ứng Hans thông minh.
Điều
gì sẽ xẩy ra nếu Phan Thị Bích Hằng hoặc Nguyễn Thanh Thúy nhận được
một yêu cầu như vậy? Chắc chắn họ sẽ từ chối với lý do chúng ta không
tin. Mà không tin thì vong thăng, làm sao mà áp vong được! Đó là lối
thoát vạn năng của giới tâm linh hoặc bói toán mỗi khi lâm vào thế bí.
Điều đáng nói là một số nhà khoa học cũng quan niệm chúng ta phải tin
thì giới tâm linh mới thành công, không tin thì họ thất bại. Nếu một sự
kiện chỉ xẩy ra khi chúng ta tin, và không xẩy ra khi chúng ta không
tin; thì đó chỉ là hình ảnh chủ quan trong tâm trí của những người đã
trót đặt niềm tin vào sự kiện đó mà thôi.
Với
tư cách một nhà khoa học đã hơn ba mươi năm nghiên cứu các hiện tượng
tâm linh, tôi xin khẳng định rằng, toàn bộ giới “ngoại cảm tìm mộ” đều
là những kẻ lừa gạt. Và tôi sẽ xin lỗi và rút lại kết luận đó khi Phan
Thị Bích Hằng, Nguyễn Thanh Thúy hoặc bất cứ nhà ngoại cảm nào tìm ra sự
thật trong vụ án nhà báo Hoàng Hùng của báo Người lao động bị đốt,
trong kỳ án vườn mít của Lê Bá Mai tại Bình Phước, trong vụ thẩm mỹ viện
Cát Tường hoặc trong nhiều trọng án chưa tìm ra thủ phạm khác.
Tiến sĩ Đỗ Kiên Cường
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét